Phật Giáo Mật Tông là một trong mười tông phái lớn của đạo Phật. Mật Tông được hình thành và phát triển vào khoảng thế kỉ V, VI tại Ấn Độ. Đây là sự kết hợp giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo Đại thừa để tạo ra một pháp môn đặc sắc. Vậy Phật Giáo Mật Tông được hiểu chính xác là gì? Phật Giáo Mật Tông thờ ai? Pháp khí trong Mật Tông gồm những gì? Hãy cùng Đúc Tượng Đồng tìm hiểu chi tiết qua bài viết sau đây nhé!

Phật Giáo Mật Tông là gì?
Phật Giáo Mật Tông là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bắt nguồn từ sự kết hợp giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo Đại thừa, được hình thành vào khoảng thế kỷ 5,6 tại Ấn Độ.
Về tên gọi, Mật Tông còn được gọi là Mật giáo, Chân ngôn môn, Kim cương thừa hay Mật thừa… Mật tông là một pháp tu bí mật của Phật giáo, dạy về cách “bắt ấn”, “trì chú”… Pháp tu này có tính chất liễu nghĩa (trọn đủ), căn cứ vào nơi tâm pháp bí truyền.
Về nguồn gốc, Mật Tông đã có từ thời Phật giáo nguyên thủy và được thể hiện rõ qua các câu thần chú trong bộ luật và kinh Khổng Tước. Nửa sau thế kẻ VII, Ấn Độ giáo cũng đã tìm tòi và nghiên cứu về các học thuyết, kể cả lý luận Phật giáo với mong muốn tạo sự ảnh hưởng lúc bấy giờ.
Sự kế thừa của Mật Tông bắt nguồn từ Đại Nhật Như Lai truyền cho Kim Cương Bồ Tát, bao gồm hai quyền kinh Đại Nhật và Kim Cương Đỉnh. Sau đó, hai quyển kinh được cho một cao tăng tại viện Đại học Nalandam và đã được ông thuyết pháp và giáo hóa tại các nước miền Nam Thiên Trúc và Tích Lan. Từ đó, Mật Tông được phổ biến về hướng Bắc đến các nước Trung Hoa, Nhật Bản, sau đó về hướng Nam đến các nước Miến Điện, Lào, Campuchia, Việt Nam…
Về giáo phái, Mật Tông lại chia thành hai phái chính bao gồm: Chân ngôn thừa (Mantrayàna) và Kim cương thừa (Vajrayàna). Trong đó, Kim Cương Thừa tập trong vào việc sử dụng các công cụ và pháp khí đặc biệt để đạt được sự giác ngộ. Trong khi, Chân Ngôn Thừa chú trọng vào việc tụng niệm và thực hành các thần chú.
Phật Giáo Mật Tông tại các nền Phật giáo trên thế giới
Phật giáo Mật Tông sau khi phát triển hưng thịnh đã được du nhập vào đất nước đầu tiên đó là Tây Tạng, nơi trở thành một trong những truyền thống tôn giáo chính của khu vực Đông Bắc Á. Sau đó, nhờ bước đệm này, Mật Tông dần đi sâu vào nền tôn giáo của các nước như Trung Quốc, Việt Nam và nhiều nước khác. Tuy nhiên, cho đến bây giờ, khu vực này chỉ có Tây Tạng, Trung Quốc và Việt Nam là có sự phát triển mạnh mẽ của phái giáo Mật Tông này.
1. Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng
Trước khi Mật Giáo Phật Tông được truyền vào Tây Tạng, dân chúng nơi này chưa có một tôn giáo nào đậm nét. Lúc đó, vùng đất chỉ có đạo Bon là đạo giáo cổ truyền của dân bản xứ. Thời đó,người ta chỉ biết thờ cúng chư thần kể cả hung thần, ác quỷ.
Vào khoảng cuối thế kỷ thứ 8, vua Tisongdetsen (740-786) có thỉnh rước 2 vị cao tăng Ấn Độ là Đại Sư Liên Hoa Sinh (Padma-Jungne) và Antarakshita. Tại đây Kim cương thừa đã hòa nhập với Phật giáo Đại thừa sẵn có của Tây Tạng và được gọi là Lạt Ma giáo.
Mật Tông Tây Tạng có 4 tông phái Mật Tông chính là:
- Phái Cổ Mật hay Cựu phái (Nyingmapa, Ninh mã phái) do Đại Sư Liên Hoa Sinh (Padma-Jungne) sáng lập vào năm 749. Ngài là giáo sư danh tiếng ở viện đại học Nalanda Phật giáo.
- Phái Mật Tông Kagyu (Ca-nhĩ-cư phái) là dòng phái Khẩu truyền (đôi khi được gọi là nhĩ truyền) do chư đạo sư truyền lại trực tiếp cho đệ tử chứ không qua văn tự nên được gọi là “Dòng Phái của Lời Nói”.
- Phái Mật Tông Sakya (Tát-ca phái) là dòng phái tập trung công sức tu tập và tổ chức lại các Kinh sách của Giáo pháp Tantra, nhưng cũng có nhiều đóng góp cho Nhân minh học đạo Bụt và có ảnh hưởng lên nền chính trị Tây Tạng giữa thế kỉ 13 và 14.
- Phái Hoàng Mạo (Guelugpa, Cách-lỗ phái) do ngài Tsongkhapa, quê ở miền bắc Tây Tạng lập ra vào thế kỷ 14. Lúc đó, Phật giáo bị mê mờ vì nhiều tín điều sai lầm và huyễn hoặc. Sư đã dùng tư tưởng cao sáng khuyên nhủ người tu hành nên tinh tiến tu, tham thiền hỏi đạo, trai giới đạo hạnh. Cuộc cải cách tôn giáo của ngài có hiệu quả vững bền. Về sau, phái của Sư đổi tên là Lạt-ma-giáo và trở thành người đứng đầu nhà nước Tây Tạng do Đức Đạt-lai Lạt-ma nắm giữ quyền cai trị dân chúng và trông nom mối đạo.
Ở Tây Tạng, đệ tử chỉ được thu nhận vào Mật tông thông qua một nghi lễ khai ngộ (initiation) đặc biệt được tiến hành bởi một lạt-ma có tên tuổi. Phật Giáo Mật tông cũng chủ trương sự tự giác ngộ thông qua việc thiền định (meditation) và niệm chân ngôn (mantra). Dòng truyền thừa vào Tây Tạng xuất phát từ trung tâm Phật học Vikramasila.
2. Phật giáo Mật Tông tại Trung Quốc
Phật Giáo Mật Tông du nhập vào Trung Quốc vào khoảng thế kỷ 7 và thịnh hành vào thế kỷ 8 với sự xuất hiện của ba vị Cao tăng Ấn Độ sang truyền pháp là Thiện Vô Uý, Kim Cương Trí và Bất Không Kim Cương. Ba ngài được tôn vinh là Khai Nguyên Tam Đại Sĩ. Dòng truyền thừa vào Trung Quốc xuất phát từ trung tâm Phật học Na-lan-đà. Trong đó, Thiện Vô Uý, được coi là tổ sư của Mật tông Trung Hoa và là người dịch Đại Nhật kinh, kinh căn bản của tông này, ra chữ Hán.
Hai dòng Mật tông Ấn Độ Chân Ngôn thừa và Kim Cương thừa truyền đến đại sư Nhất Hạnh – đệ tử của Thiện Vô Úy – thì nhập lại làm một ở Trung Quốc. Mật tông tại Trung Quốc rất thịnh hành vào đời Đường, nhưng dần dần thoái trào và về sau này thì giáo phái này suy vi hẳn và không còn giữ được vị trí nổi bật như trước.

3. Phật Giáo Mật Tông Việt Nam
Phật Giáo Mật Tông vốn truyền vào Việt Nam từ khá sớm, vào khoảng thế kỷ VI. Theo Thiền uyển tập anh, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, người Ấn Độ, đã đến Việt Nam và dịch kinh Đại thừa phương quảng tổng trì tại chùa Pháp Vân. Đây là một bộ kinh của Mật giáo, và liên hệ rất nhiều đến Thiền.
Dĩ nhiên, Mật Tông thịnh hành tại Việt Nam không chỉ do mỗi ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi mà còn từ Phật giáo Chiêm Thành, những Tăng sĩ ngoại quốc và những vị sư Việt Nam thọ học từ Ấn Độ. Trong đó:
Ngài Mahamaya, gốc Chiêm Thành, thuộc đời thứ 10 của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, từng theo học với ngài Pháp Thuận – Pháp hành sám và trì tụng chú Đại bi – cũng rất nổi tiếng về pháp thuật. Thiền uyển tập anh cho rằng ông đắc pháp Tổng trì Tam muội, thi triển nhiều pháp thuật khiến cho vua Lê Đại Hành và dân chúng đều nể phục.
Một thiền sư Việt, ngài Sùng Phạm (mất năm 1087), đời thứ 11 của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, đã đến Ấn Độ chín năm, sau mở trường dạy tại chùa Pháp Vân. Đệ tử của ngài có sư Từ Đạo Hạnh nổi tiếng về phù chú và sư Trì Bát cũng thấm nhuần Mật giáo.
Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi chép về một vị Tăng sĩ Ấn Độ, vào năm 1311, đến nước ta, xưng là 300 tuổi, theo Mật giáo, có thể ngồi xếp bằng nổi trên mặt nước. Năm 1318, vua Anh Tông mời một Tăng sĩ Ấn Độ, tên Ban Để Đa Ô Sa Thất Lợi đến dịch một bộ kinh Mật giáo tên là Bạch Tán Thần chú kinh.

Tuy thế, Mật Tông Việt Nam từ thời kỳ đầu cho đến những thập niên cuối thế kỷ XX, dù có những ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống tu tập của Tăng ni, Phật tử song vẫn còn chưa thành lập tông phái một cách rõ ràng cũng như chưa có các dòng truyền thừa chính thức.
Phật giáo Mật Tông thờ những vị Phật nào?
Hệ thống các vị Phật trong Phật Giáo Mật Tông bao gồm các vị Phật trong Mật Tông Kim Cương Thừa. Trong trường phái Mật Tông thường có hình ảnh Ngũ Phương Phật hay Ngũ Trí Như Lai bao gồm:
- Đại Nhật Như Lai (Tỳ Lô Giá Na Như Lai, Vairochana)
- A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya), hay Phật Dược Sư Mật Tông.
- Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava)
- A Di Đà Như Lai (Amitabha) hay Phật A Di Đà Mật Tông
- Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi)
Ngoài ra Mật Tông còn thờ Các vị Bồ Tát Trong Phật Giáo Mật Tông như:
- Đức Quán Thế Âm Bồ Tát,
- Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát,
- Đức Phổ Hiền Bồ Tát,
- Đức Địa Tạng Bồ Tát,
- Đức Quán Thế Âm Nghìn Mắt Nghìn Tay,
- Đạo Sư Liên Hoa Sanh,
- Đức Lục Độ Phật Mẫu Tara….
Bát Đại Hộ Pháp Mật Tông Tây Tạng:
- Yama (Dạ Ma, Thần chết)
- Mahakala (Đại Hắc Thiên)
- Yamantaka (Hàng Phục Dạ Ma)
- Kubera (Vaisravana, Jambhala, Tài Bảo Thiên Vương)
- Hayagriva (Mã Đầu Minh Vương)
- Palden Lhamo (Vị nữ thần)
- Tshangs Pa or ‘White Brahma’ (Phạm Thiên Trắng)
- Begtse (Thần Chiến Tranh)

Phật Giáo Mật Tông sử hữu pháp khí gì?
Phật Giáo Mật Tông sở hữu một lượng pháp khí vô cùng phong phú và đa dạng tạo ra nhiều linh nghiệm. Mỗi loại pháp khí đều ẩn chứa huyền bí riêng. Trong Phật Giáo Mật Tông có thể thống kê đến 6 loại pháp khí như:
- Các vật dùng khi hoằng hóa như vòng ma ni, đá cầu nguyện;
- Những vật dùng khi hộ ma như đàn lửa, muôi hộ ma, bình quý;
- Các vật dùng khi kính lễ như áo cà sa, vòng cổ, khăn ha – đa;
- Những vật dùng khi tán tụng như chuông, trống, mõ, kèn;
- Các vật dùng khi cúng như lư hương, hoa, cờ, ô dù;
- Những vật dùng khi trì niệm như mạn đà la, tràng hạt niệm phật, chày kim cang, chuông kim cương.
Trong đó, Phật Giáo Mật Tông nổi bật với 3 loại pháp khí sau:
1. Chày Kim Cang
Chày Kim Cang hay còn gọi là Chày Kim Cang, Kim Cang Chùy, Kim Cương Chùy, Kim Cang Chử hoặc Kim Cương Chử, là một trong những biểu tượng quan trọng của Phật Giáo và Ấn Độ Giáo. Đặc biệt, nó chính là biểu tượng của dòng Kim Cương Thừa – Mật Tông.
Chày Kim Cang là biểu tượng tinh túy của truyền thống Kim Cương thừa, tên của pháp khí này khởi nguồn từ chính chất liệu kim cương. Theo thuật ngữ tiếng Phạn, Kim Cương có nghĩa là bất hoại, đầy uy lực và rực rỡ,giống như viên kim cương không thể bị cắt rời hoặc bị phá vỡ. Chày Kim Cang biểu trưng cho Phật tính, có tính chất không thể phá hủy và thường hằng.
2. Chày Yết Ma (Chày Kim Cang hình chữ thập)
Chày Yết Ma, là pháp khí của Mật giáo, do chày 3 cạnh đặt giao nhau tạo thành hình chữ thập, tượng trưng cho chí tác nghiệp vốn có của chư phật, thuộc về luân bảo. Khi tu pháp, bốn góc trên đàn lớn đều đặt một yết ma kim cương với ý nghĩa tượng trưng cho sự phá trừ 12 nhân duyên. Pháp khí này còn có tên gọi là yết ma kim cương, thập tự yết ma, thập tự kim cương, luân yết ma.
3. Chuông Kim Cang
Chuông Kim Cang là pháp khí âm nhạc phổ biến nhất, không thể thiếu trong nghi lễ Mật thừa, mỗi khi âm thanh chuông vang lên khiến rung động không gian, xua tan phiền não, ma quỷ. Dưới phương diện nghi thức, chuông Kim Cang là một cặp với Chày Kim Cang.
Chuông Kim Cang hay còn gọi là chuông pháp, cán cầm của nó bằng một nửa chày Kim Cang, một nửa còn lại có thân hình là một chiếc chuông tương đối lớn, hai hình đó hợp lại thành vẻ đẹp của chuông pháp. Dưới phương diện nghi thức, Chuông Kim Cang là một cặp với Chày Kim Cang.
Chuông Kim Cang gồm ba phần: Chốt Kim Cang, khuân diện và bầu chuông. Ba phần tiêu biểu cho tam giới: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
Đúc Tượng Đồng – Đơn vị uy tín, nhận đúc tượng Phật Giáo Mật Tông theo yêu cầu
Đúc Tượng Đồng là đơn vị uy tín chuyên nhận chế tác và đúc tượng Phật Giáo Mật Tông. Tượng được đúc bằng nhiều chất liệu như đồng vàng, đồng đỏ, đồng nồi hè, khảm tam khí, khảm ngũ sắc, dát vàng cao cấp. Các sản phẩm đều được chế tác hoàn toàn thủ công bởi nghệ nhân giỏi, thể hiện trình độ đúc đồng đỉnh cao.
Bên cạnh đó, Đúc Tượng Đồng còn nhận đúc tượng Phật theo yêu cầu, với chất lượng cao, mẫu mã đẹp. Các mẫu tượng Phật bằng đồng do Đúc Tượng Đồng thực hiện luôn được khách hàng, các sư thầy đánh giá cao về độ giống thật, đẹp chân thực và nét truyền thần trong bức tượng. Mỗi sản phẩm đều đạt các tiêu chí kiểm định nghiêm ngặt, nét chạm thanh thoát, diện mặt thần thái, tỉ lệ kích thước hình khối chuẩn.
Chúng tôi sở hữu phân xưởng lớn cùng nhiều xưởng vệ tinh tại làng nghề Vạn Điểm, hệ thống máy móc trang thiết bị hiện đại. Cùng với đó là đội ngũ nghệ nhân giỏi hàng đầu, đội ngũ thợ hoàn thiện có tay nghề cao. Với những lợi thế đó, Đúc Đồng Bảo Long luôn cho ra đời những sản phẩm đẹp, tinh xảo, chất lượng.
Dưới đây là một số công trình đúc tượng Phật được thực hiện bởi các nghệ nhân có trên 15 năm kinh nghiệm tại cơ sở chúng tôi. Để được tư vấn chi tiết hơn về sản phẩm và dịch vụ, quý khách vui lòng liên hệ Hotline: 0937 522 286 để được tư vấn và báo giá tốt nhất.